British Columbia là tỉnh bang cực tây của Canada. Phía Tây giáp với biển Thái Bình Dương, phía Đông giáp với rặng Rockies và tỉnh bang Alberta. Phía Bắc giáp với tỉnh bang Yukon và phía Nam giáp với Hoa Kỳ.
British Columbia có diện tích 944,735 km2 và dân số là 5.211.000 người.
Tên gọi
Tên tỉnh bang được Nữ hoàng Victoria đặt khi vùng lãnh thổ này là thuộc địa Columbia của Anh từ 1858 - 1866. Sau này tên đã được rút ngắn thành British Columbia.
Lịch sử
Bài viết chi tiết: Lịch sử British Columbia
British Columbia trước đây là quê hương của người thổ dân, có lịch sử lâu đời với một số lượng đáng kể các ngôn ngữ bản địa. Có hơn 200 quốc gia tại British Columbia. Trước khi người châu Âu tiếp cận, lịch sử loài người được biết đến từ lịch sử truyền miệng của các nhóm quốc gia thuộc các bộ tộc đầu tiên.
Hội nghị tỉnh bang, bao gồm các nhân vật như Amor De Cosmos, John Robson và Robert Beaven, đã dẫn đầu cho nhóm cải cách đưa British Columbia gia nhập Canada, vốn được thành lập từ ba thuộc địa Bắc Mỹ thuộc Anh vào năm 1867 (Tỉnh Canada, Nova Scotia và New Brunswick). Một số yếu tố thúc đẩy sự kích động này, bao gồm nỗi lo sáp nhập vào Hoa Kỳ, nợ quá lớn được tạo ra bởi sự gia tăng dân số không kiểm soát, nhu cầu về các dịch vụ do chính phủ hỗ trợ và suy thoái kinh tế do sự kết thúc của cơn sốt vàng.
Đời sống kinh tế bắt đầu trở lại bình thường vào cuối những năm 1930, nhưng đó là sự khởi đầu của thế chiến thứ 2 đã làm thay đổi nền kinh tế quốc gia và chấm dứt thời kỳ khó khăn của cuộc khủng hoảng.
British Columbia từ lâu đã tận dụng vị trí của mình trên Thái Bình Dương để có quan hệ chặt chẽ với Đông Á. Sự gần gũi này thường gây ra xích mích giữa các nền văn hóa đôi khi thành sự thù địch phân biệt chủng tộc đối với những người gốc Á. Đây là biểu hiện rõ nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai khi nhiều người gốc Nhật được tái định cư hoặc làm việc trong lãnh thổ tỉnh bang.
Địa lý
Bài viết chi tiết: Địa lý British Columbia
British Columbia có phía tây giáp Thái Bình Dương và tiểu bang Alaska của Mỹ, phía bắc giáp với vùng lãnh thổ Yukon và vùng lãnh thổ Northwest Territories, phía đông giáp với tỉnh bang Alberta và phía nam giáp với tiểu bang Washington, Idaho của Hoa Kỳ. Biên giới phía nam của British Columbia được thành lập bởi Hiệp ước Oregon năm 1846, mặc dù lịch sử gắn liền với những vùng đất ở tận phía nam như California.
Đường bờ biển của British Columbia dài hơn 27.000 km bao gồm các vịnh hẹp và khoảng 6.000 hòn đảo, hầu hết đều không có người ở. Đây là tỉnh bang duy nhất ở Canada giáp Thái Bình Dương.
Thủ phủ của British Columbia là thành phố Victoria, nằm ở phía đông nam của đảo Vancouver. Chỉ có một vùng hẹp của đảo Vancouver, từ sông Campbell đến Victoria, là nơi tập trung dân cư đáng kể. Phần lớn phần phía tây của đảo Vancouver và phần còn lại của bờ biển được bao phủ bởi rừng ôn đới. Thành phố đông dân nhất của tỉnh là Vancouver, nằm ở ngã ba sông Fraser và eo biển Georgia, ở góc phía tây nam của đại lục (một khu vực thường được gọi là Lower Mainland).
Do có nhiều dãy núi và bờ biển gồ ghề, khí hậu của British Columbia thay đổi đáng kể trên toàn tỉnh bang. Vùng duyên hải phía nam British Columbia có khí hậu đại dương ôn hòa, nhiều mưa, chịu ảnh hưởng của dòng chảy Bắc Thái Bình Dương, có nguồn gốc từ dòng Kuroshio. Hồ Henderson trên đảo Vancouver có lượng mưa trung bình 6,903mm một năm. Ở Victoria, nhiệt độ trung bình hàng năm là 11,2°C, ấm nhất ở Canada. Do sự hiện diện của các dãy núi liên tiếp, một số thung lũng có khí hậu khô cằn với lượng mưa ít hơn 250mm trong một năm.
Mùa hè khô hạn kéo dài thường tạo điều kiện cho các đám cháy rừng. Nhiều khu vực của tỉnh thường được bao phủ bởi một đám mây dày và sương mù thấp trong những tháng mùa đông, trái ngược với mùa hè. Số giờ nắng hàng năm dao động từ 2200 giờ ở gần Cranbrook và Victoria đến dưới 1300 giờ ở Prince Rupert.
Có 141 khu bảo tồn sinh thái, 35 công viên vùng duyên hải, 7 di sản cấp tỉnh, 6 khu di tích lịch sử quốc gia Canada, 4 công viên quốc gia và 3 khu bảo tồn. 12,5% diện tích của tỉnh (114.000 km2) là khu vực được bảo vệ.
Nhân khẩu học
Bài viết chi tiết: Nhân khẩu học British Columbia
Một nửa số người dân British Columbia sống ở khu vực đại đô thị Vancouver, bao gồm Vancouver, Surrey , New Westminster, West Vancouver, North Vancouver, North Vancouver, Burnaby, Coquitolam, Port Coquitolam, Maple Ridge, Langley, Langley, Delta, Pitt Meadows, White Rock, Richmond, Port Moody, Anmore, Belcarra, Vịnh Lions và Đảo Bowen, với các khu vực chưa hợp nhất liền kề.
Nơi tập trung dân số lớn thứ hai của British Columbia là ở cực nam của đảo Vancouver, được tạo thành từ 13 đô thị của Đại Victoria, Victoria, Saanich, Esquimalt, Oak Bay, View Royal, Highlands, Colwood, Langford, Central Saanich, Saanichton, North Saanich, Sidney, Metchosin, Sooke. Khu vực đô thị cũng bao gồm một số khu bảo tồn của người da đỏ. Gần một nửa dân số đảo Vancouver là ở Đại Victoria.
Trong số các tỉnh, British Columbia có tỷ lệ dân tộc thiểu số cao nhất, chiếm 27% dân số. Theo Khảo sát dân số quốc gia năm 2011, các cộng đồng dân tộc thiểu số lớn nhất ở British Columbia bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và các cộng đồng Nam Á.
Kinh tế
Bài viết chi tiết: Kinh tế British Columbia
Nền kinh tế của British Columbia rất đa dạng với các ngành sản xuất dịch vụ chiếm phần lớn trong GDP tỉnh bang. Đây là điểm cuối của hai tuyến đường sắt xuyên lục địa, là nơi có 27 nhà ga lớn chở hàng hóa và hành khách trên biển. Mặc dù sử dụng ít hơn 5% lãnh thổ dùng làm đất canh tác, British Columbia có nền nông nghiệp phong phú (đặc biệt là ở Fraser và thung lũng Okanagan).
Khí hậu tại British Columbia phù hợp để làm nơi phát triển các mô hình giải trí như: giải trí ngoài trời và du lịch, mặc dù nền tảng kinh tế của tỉnh bang từ lâu là khai thác tài nguyên và canh tác nông nghiệp. Vancouver, thành phố lớn nhất của tỉnh, là trụ sở của nhiều công ty khai thác tài nguyên thiên nhiên ở phía tây. Tỉnh bang cũng được hưởng lợi từ sự phát triển của thị trường bất động sản phát triển và thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức trung bình quốc gia.
Việc làm trong lĩnh vực khai thác tài nguyên đã giảm dần ở thời điểm hiện tại, các việc làm mới chủ yếu là trong lĩnh vực xây dựng, bán lẻ và dịch vụ. Tỉnh bang hiện có tỷ lệ việc làm trong ngành dịch vụ cao nhất ở miền tây, bao gồm 72% công nghiệp (so với mức trung bình 60% của Tây Canada). Tuy nhiên, nhiều khu vực bên ngoài đô thị vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên. Với ngành công nghiệp điện ảnh được gọi là Hollywood North, khu vực Vancouver là địa điểm sản xuất phim lớn thứ ba ở Bắc Mỹ, sau Los Angeles và New York.
Năm 2020, British Columbia có GDP là 242,410 tỷ CAD. Tỷ lệ nợ trên GDP của British Columbia đang tăng lên tới 15,0% trong năm tài chính 2019, và dự kiến sẽ đạt 16,1% vào năm 2021.
Chính trị
Bài viết chi tiết: Chính trị British Columbia
Quận công, Janet Austin, là đại diện của Nữ hoàng Canada tại British Columbia. Nếu không có quận công, Hội đồng bộ trưởng chỉ định một người đứng đầu để thực hiện các công việc của tỉnh bang.
Trên thực tế, đây thường là Chánh án của British Columbia. British Columbia có một Hội đồng lập pháp được bầu chọn gồm 87 thành viên, được bầu bởi hệ thống bỏ phiếu, mặc dù từ năm 2003 đến 2009 đã có cuộc tranh luận đáng kể về việc chuyển sang một hệ thống bỏ phiếu với những đại cử tri.
Giáo dục
Bài viết chi tiết: Giáo dục British Columbia
Giáo dục đại học ở British Columbia được thực hiện bởi 25 tổ chức được chính phủ tài trợ bao gồm 11 trường đại học, 11 trường cao đẳng và 3 học viện. Ngoài ra còn có 3 trường đại học tư nhân, 5 trường cao đẳng tư nhân và 6 trường cao đẳng tôn giáo. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các viện và trường cao đẳng tư nhân.
Các trường đại học và cao đẳng công lập bao gồm:
- Đại học British Columbia
- Đại học Simon Fraser
- Đại học Victoria
- Đại học Northern British Columbia
- Đại học Vancouver Island
- Viện Công nghệ British Columbia
- Đại học Bách khoa Kwantlen
- Đại học Thompson Rivers
- Đại học Nghệ thuật và Thiết kế Emily Carr
- Đại học Royal Roads
- Đại học Capilano
- Đại học Fraser Valley
- Cao đẳng Douglas
- Cao đẳng Camosun
- Cao đẳng Langara
- Cao đẳng Selkirk
- Cao đẳng New Caledonia
- Cao đẳng Rockies
- Cao đẳng Okanagan
- Cao đẳng Coast Mountain
Hạ tầng
Giao thông vận tải đóng vai trò rất lớn trong lịch sử phát triển của British Columbia. Dãy núi Rocky và các dãy núi phía tây là một trở ngại đáng kể cho việc đi lại trên đất liền cho đến khi hoàn thành tuyến đường sắt xuyên lục địa vào năm 1885.
Cho đến những năm 1930, đường sắt là phương tiện đi lại đường bộ duy nhất từ phần còn lại của Canada. Với việc xây dựng đường cao tốc liên tỉnh vào năm 1932 (nay là Đường cao tốc Crowsnest), và sau đó là đường cao tốc xuyên Canada, giao thông đường bộ đã phát triển thành phương thức di chuyển chủ yếu đến phần còn lại của đất nước.
Do diện tích rộng lớn và địa hình gồ ghề, British Columbia cần hàng ngàn km đường cao tốc tỉnh để kết nối cộng đồng. Các hệ thống đường bộ của British Columbia được cho là bảo trì kém và nguy hiểm cho đến khi có chương trình cải tiến tập trung được bắt đầu vào những năm 1950 và 1960.
Sự phát triển đường sắt đã mở rộng đáng kể sau khi đường sắt Thái Bình Dương của Canada hoàn thành vào năm 1885. Đây là phương thức vận chuyển đường dài cho đến khi việc mở rộng và cải thiện hệ thống đường cao tốc bắt đầu vào những năm 1950.
Vận tải thương mại đường biển có tầm quan trọng lớn. Các cảng lớn tại British Columbia bao gồm Vancouver, Roberts Bank (gần Tsawwassen), Prince Rupert và Victoria. Trong số này, cảng Vancouver là quan trọng nhất và lớn nhất ở Canada. Vancouver, Victoria và Prince Rupert cũng là những cảng chính cho các tàu du lịch. Năm 2007, một cảng container hàng hải lớn đã được mở tại Prince Rupert.
Có hơn 200 sân bay tại British Columbia, những sân bay chính là sân bay quốc tế Vancouver, sân bay quốc tế Victoria, sân bay quốc tế Kelowna và sân bay quốc tế Abbotsford. Tính đến năm 2017, sân bay quốc tế Vancouver là sân bay đông thứ 2 trong cả nước và là nơi nhập cảnh lớn thứ hai ở bờ biển phía tây (sau Los Angeles) của lục địa Bắc Mỹ.
Văn hóa
Bài viết chi tiết: Văn hóa British Columbia
Với địa hình đồi núi đa dạng và bờ biển, hồ, sông và rừng, British Columbia từ lâu đã được yêu thích cho các hoạt động như đi bộ đường dài và cắm trại, leo núi và leo núi, săn bắn và câu cá.
Thể thao dưới nước được yêu thích ở nhiều nơi. Chèo thuyền trên bờ biển British Columbia với các vịnh hẹp, đi bè và chèo thuyền kayak phổ biến trên nhiều con sông nội địa. Đi thuyền buồm và chèo thuyền được rất nhiều người yêu thích.
British Columbia cũng có nhiều môn thể thao bao gồm golf, tennis, bóng đá, khúc côn cầu, bóng bầu dục, bóng chày, bóng rổ và trượt băng nghệ thuật. British Columbia đã sản sinh ra nhiều vận động viên xuất sắc, đặc biệt là các môn thể thao dưới nước và thể thao mùa đông.