Gout là bệnh mạn tính cơ xương khớp, là một bệnh rối loạn chuyển hóa nhân purin, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể. Ðặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát, thường ở một khớp và sau đó là tình trạng viêm khớp biến dạng mạn tính.
Điều kiện thuận lợi nhiều khi không rõ nhưng có thể xảy ra sau bữa ăn có nhiều thịt (nhất là loại thịt có nhiều purin), rượu, sau xúc cảm mạnh, sau chấn thương kể cả vi chấn thương (đi giày chật), sau nhiễm khuẩn, dùng các thuốc lợi tiểu như thiazid...
− Cơn gout cấp: Xuất hiện đột ngột ban đêm, bệnh nhân thức dậy vì đau ở khớp, thường là khớp bàn - ngón chân cái (60 - 70% ): khớp sưng to, đỏ, phù nề, căng bóng, nóng, đau dữ dội và ngày càng tăng, va chạm nhẹ cũng rất đau, thay đổi thứ tự: bàn chân, cổ chân, gối, bàn tay, cổ tay, khuỷu, hiếm thấy ở khớp háng, vai, cột sống. Lúc đầu chỉ viêm một khớp sau đó có thể viêm nhiều khớp.
Ngoài khớp ra, túi thanh dịch, gân, bao khớp cũng có thể bị thương tổn. Các dấu hiệu viêm có thể kéo dài nhiều ngày, thường từ 5-7 ngày rồi các dấu hiệu viêm giảm dần, người bệnh sẽ đỡ đau, đỡ nề, bớt đỏ. Hết cơn, khớp trở lại hoàn toàn bình thường.
Cơn gout cấp xuất hiện đột ngột ban đêm, bệnh nhân thức dậy vì đau ở khớp.
Trong cơn gout cấp có thể có sốt vừa hoặc nhẹ, tăng tốc độ lắng hồng cầu, dịch khớp (chỉ làm được ở khớp gối) , đa số là loại đa nhân, dưới kính hiển vi thấy nhiều tinh thể urat.
Cơn gout cấp dễ tái phát, khoảng cách có thể gần nhưng cũng có thể rất xa, có khi >10 năm.
Bên cạnh thể điển hình, cũng có thể tối cấp với khớp viêm sưng tấy dữ dội, bệnh nhân đau nhiều nhưng cũng có thể gặp thể nhẹ, kín đáo, đau ít dễ bị bỏ qua.
− Lắng đọng urat: Lắng đọng urat làm cho hình thành các hạt tôphi dưới da và gây nên bệnh khớp mạn tính do urat.
+ Hạt tôphi: Thường biểu hiện chậm, hàng chục năm sau cơn gout đầu tiên nhưng cũng có khi sớm hơn. Khi đã xuất hiện thì dễ tăng số lượng và khối lượng và có thể loét. Hạt tôphi thường thấy trên sụn vành tai rồi đến khuỷu tay, ngón chân cái, gót chân, mu bàn chân, gân Achille.
+ Bệnh khớp do urat: Xuất hiện chậm, khớp bị cứng, đau khi vận động và làm hạn chế vận động, khớp có thể sưng to vừa phải, không đối xứng, cũng có thể có tôphi kèm theo. Chụp Xquang thấy hẹp khớp, hình ảnh khuyết xương hình hốc ở đầu xương.
− Biểu hiện về thận: Urat lắng đọng rải rác ở tổ chức kẽ thận, bể thận, niệu quản.
+ Sỏi thận: Khoảng 10 - 20% các trường hợp gout, điều kiện thuận lợi là pH nước tiểu quá toan, nồng độ acid uric cao. Sỏi urat thường nhỏ và không cản quang.
+ Tổn thương thận: Lúc đầu chỉ có protein niệu, có thể có kèm theo hồng cầu, bạch cầu vi thể, dần dần diễn tiến đến suy thận. Suy thận thường gặp ở thể có tôphi, tiến triển chậm và là nguyên nhân gây tử vong.
Thông thường người bệnh gout sẽ có 1 - 2 cơn mỗi năm, khoảng cách các cơn ngắn lại, 10 - 20 năm sau cơn đầu tiên, xuất hiện các tophi và bệnh khớp urat làm hạn chế vận động. Bệnh nhân có thể tử vong do suy thận hay do tai biến mạch máu.
Có một số thể nhẹ hơn, cơn gout ít xảy ra, không có tophi. Cũng có một số thể nặng hơn, xảy ra ở người trẻ < 30 tuổi, cơn gout dày liên tiếp, tophi và bệnh khớp do urat xuất hiện sớm.
Để chẩn đoán bệnh gout ngoài biểu hiện lâm sàng còn phải chỉ định làm các xét nghiệm để chẩn đoán phân biệt với các bệnh như: Viêm khớp do lắng đọng các tinh thể khác (pyrophosphat calci dihydrat) hay bệnh giả gout; Viêm khớp nhiễm khuẩn; Viêm khớp dạng thấp; Viêm khớp phản ứng…. và một số bệnh lý khác như: viêm mô tế bào, bệnh mạch máu ngoại biên…
Người bệnh gout cần tuân thủ chỉ định dùng thuốc của bác sĩ để tránh hệ lụy.
2. Các phương pháp điều trị gout
Tùy từng trường hợp cụ thể các bác sĩ sẽ chỉ định, nguyên tắc điều trị chung với người bệnh gout là điều trị viêm khớp trong cơn gout cấp; Dự phòng tái phát cơn gout, dự phòng lắng đọng urat trong các tổ chức và dự phòng biến chứng thông qua điều trị hội chứng tăng acid uric máu với mục tiêu kiểm soát acid uric máu dưới 360 µmol/l (60 mg/l) với gout chưa có hạt tôphi và dưới 320 µmol/l (50 mg/l) khi gout có hạt tôphi.
- Điều trị nội khoa sẽ được các bác sĩ chỉ định cụ thể ở từng bệnh nhân. Thông thường bằng các loại thuốc như: thuốc chống viêm với mục đích chống viêm, giảm đau trong cơn gout cấp hoặc đợt cấp của gout mạn tính.
- Điều trị các bệnh lý kèm theo như: Tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng mỡ máu, béo phì,... nếu có. Cần điều trị viêm khớp cấp trước. Chỉ sau khi tình trạng viêm khớp đã hết hoặc thuyên giảm mới bắt đầu dùng các thuốc hạ acid uric. Các thuốc hạ acid uric máu có thể phải dùng suốt đời.
- Dự phòng tái phát bằng các thuốc kháng viêm không steroid và thuốc corticoid đường toàn thân được chỉ định khi các thuốc trên không hiệu quả hoặc có chống chỉ định, cần rất hạn chế và dùng ngắn ngày.
- Điều trị ngoại khoa. Phẫu thuật cắt bỏ hạt tôphi được chỉ định trong trường hợp gout kèm biến chứng loét, bội nhiễm hạt tôphi hoặc hạt tôphi kích thước lớn, ảnh hưởng đến vận động hoặc vì lý do thẩm mỹ. Khi phẫu thuật lưu ý cho dùng colchicin nhằm tránh khởi phát cơn gout cấp. Cần kết hợp thuốc hạ acid uric máu.
Ngoài việc dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ thì người bệnh gout cần chú ý về chế độ ăn uống - sinh hoạt.
Người bệnh cần tránh các chất có nhiều purin như tạng động vật, thịt, cá, tôm, cua…. Có thể ăn trứng, hoa quả. Ăn thịt không quá 150g/24 giờ.
Đặc biệt không uống rượu, cần giảm cân, tập luyện thể dục thường xuyên… Người bệnh cần uống nhiều nước, khoảng 2-4 lít/24 giờ, đặc biệt là các loại nước khoáng có kiềm hoặc nước kiềm 14‰. Điều này sẽ làm tăng lượng nước tiểu trong 24 giờ, giúp hạn chế tối đa sự lắng đọng urat trong đường tiết niệu.
Ngoài ra cần tránh các thuốc làm tăng acid uric máu, tránh các yếu tố làm khởi phát cơn gout cấp như stress, chấn thương…
3. Phòng ngừa bệnh gout như thế nào?
Bệnh gout có diễn biến phức tạp hơn những bệnh xương khớp khác. Do đó, người bệnh cần theo dõi tình trạng bệnh sát sao, chặt chẽ. Người bệnh nên đi khám sức khỏe đều đặn để xác định chỉ số như acid uric trong máu, creatine… Đặc biệt, những người lớn tuổi, người thường xuyên uống rượu bia nên khám sức khỏe định kỳ. Từ đó giúp phát hiện kịp thời các bệnh lý và điều trị sớm nhất.
Ngoài ra, chế độ ăn uống, sinh hoạt đóng vai trò quan trọng trong điều trị, kiểm soát các cơn gout tái phát. Cụ thể không ăn các loại thực phẩm như nội tạng động vật, thịt đỏ, hải sản…
Tập thể dục thường xuyên để giảm cân, tăng cường sức đề kháng. Không được uống rượu bia, chất kích thích gây hại cho cơ thể.
Cần uống nhiều nước, từ 2 - 3 lít nước mỗi ngày để tăng đào thải acid uric… Với các trường hợp khác nhau, bác sĩ sẽ chỉ định phác đồ điều trị gout riêng biệt. Bệnh nhân phải thăm khám sức khỏe định kỳ và tuân theo phác đồ điều trị bệnh của bác sĩ. Điều này sẽ giúp kiểm soát tốt bệnh gout và ngăn ngừa bệnh tái phát.