Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đa số người bệnh sẽ hồi phục hoàn toàn sau khi mắc COVID-19. Nhưng có khoảng từ 10 đến 20% bị ảnh hưởng lâu dài, biểu hiện ở mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng thì gọi đó là tình trạng hậu COVID-19.
1. Khi nào xảy ra hậu COVID-19?
WHO định nghĩa hậu COVID-19 là tình trạng bệnh lý xuất hiện ở những người trong tiền sử nhiễm SARS-CoV-2, thường xuất hiện trong vòng 3 tháng sau khi khởi phát COVID-19 với triệu chứng có tác động đến cơ thể và kéo dài ít nhất 2 tháng. Các triệu chứng và ảnh hưởng của nó cũng cần chú ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác.
Đa số triệu chứng hậu COVID-19 thường gặp ở người bệnh nặng, phải nhập viện. Đặc biệt ở nhóm phải can thiệp thở máy, phải nằm điều trị tại khoa hồi sức tích cực, người cao tuổi, có nhiều bệnh nền như: Đái tháo đường, tăng huyết áp, béo phì, bệnh tim mạch, nghiện hút thuốc lá, nghiện rượu, bệnh thận mạn tính.
Ở những bệnh nhân có những kết quả xét nghiệm trong khi điều trị COVID-19 thấy giảm bạch cầu lympho, giảm tiểu cầu, tăng D- dimer, tăng LDH, troponin, tăng CRP, tăng feritin, tăng IL-6, rối loạn đông máu, thì dễ mắc hậu COVID-19 hơn.
Một số yếu tố nguy cơ khác như có trên 5 triệu chứng ở tuần đầu mắc bệnh. Bệnh nhân là phụ nữ từ 50 đến 60 tuổi và bị bội nhiễm thì cũng dễ mắc hậu COVID-19. Tuy nhiên, không giống như một số loại hội chứng hậu bệnh lý khác, hậu COVID-19 có thể xảy ra với bất kỳ ai đã bị mắc COVID-19, ngay cả khi bị bệnh nhẹ, hoặc thậm chí trong thời gian mắc bệnh họ không có triệu chứng thì vẫn có thể bị hậu COVID-19.
Theo một thống kê năm 2021 có đến từ 10-35% bệnh nhân COVID-19, không cần nhập viện vẫn bị hậu COVID-19, bất kể tình trạng bệnh nền. Còn nhóm bệnh nhân có bệnh nền, cần nhập viện vì COVID-19, có tỉ lệ bị hậu COVID-19 lên đến 80%.
Hậu COVID-19 thường xuất hiện trong vòng 3 tháng sau khi khởi phát COVD-19.
Bệnh nhân bị hậu COVID-19 với các biểu hiện triệu chứng ở nhiều cơ quan, hệ thống trong cơ thể như hô hấp, tim mạch, thần kinh - tâm thần, ngoài da và toàn thân… nhưng phổ biến hơn cả là di chứng ở cơ quan hô hấp (chiếm khoảng 50% tổng số biểu hiện hậu COVID 19).
2. Biểu hiện hô hấp hậu COVID-19
Biểu hiện hay gặp nhất là khó thở và ho kéo dài, đau ngực, huyết khối, thuyên tắc động mạch phổi, đặc biệt là xơ phổi mô kẽ hậu COVID-19.
- Khó thở và ho kéo dài, đau ngực:
Thường mắc kéo dài sau khi điều trị COVID-19, là hiện tượng thường xảy ra sau nhiễm virus đường hô hấp nói chung với triệu chứng chính là ho, thường chỉ ho khan, thở khò khè, nặng ngực, thường gặp ở bệnh nhân trong khi mắc COVID-19 có tăng IL-6 và lipocalin-2.
Các biểu hiện như vậy được gọi là hội chứng tăng phản ứng đường thở sau viêm.
- Huyết khối, thuyên tắc động mạch phổi:
Bệnh nhân có thể bị tổn thương mạch máu nhỏ ở phổi, mắc huyết khối lớn và nhỏ đã xảy ra ở giai đoạn sớm của COVID-19, hiện tượng này xảy ra ở COVID-19 nhiều hơn các bệnh virus khác. Mặt khác, tình trạng tăng đông có thể kéo dài qua thời kỳ hậu COVID-19. Cơ chế huyết khối, thuyên tắc động mạch phổi là do máu ứ trệ, tổn thương nội mạc mạch máu và tăng đông.
Khi bệnh nhân có các biểu hiện như: Khó thở, đau tức ngực, ho và có thể ho ra máu, cần xét nghiệm D-dimer và kiểm tra Xquang phổi, điện tim, siêu âm tim, nếu nghi ngờ thuyên tắc động mạch phổi cần chụp cắt lớp vi tính (CT-Scan) ngực có thuốc cản quang để chẩn đoán xác định huyết khối động mạch phổi.
Khi có biểu hiện khó thở, ho kéo dài, đau ngực… sau COVID-19, bệnh nhân cần đi khám để được theo dõi và điều trị.
- Xơ phổi mô kẽ hậu COVID-19:
Đây là biến chứng nghiêm trọng nhất của hậu COVID-19, cơ chế được giải thích là do CRP, IL-6 và LDH tăng cao hoạt hóa fibroblast gây xơ phổi. Xơ phổi mô kẽ thường xảy ra nhiều ở những bệnh nhân thở máy, viêm phổi nặng, hút thuốc, nghiện rượu, và khi điều trị oxy liều cao gây stress oxy hóa, chấn thương do thở máy cũng làm tăng khả năng xơ phổi. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là xơ phổi vẫn có thể xảy ra ở những bệnh nhân COVID-19 nhẹ, điều trị ngoại trú, trẻ tuổi.
Biểu hiện lâm sàng là những bệnh nhân này khó thở thường xuyên, tăng khi gắng sức, nặng hơn là phụ thuộc thở oxy, mệt mỏi, trên phim CT-Scan ngực tổn thương xơ tiến triển ở mô kẽ kết hợp tổn thương kính mờ 2 phổi, đo chức năng hô hấp bệnh nhân có rối loạn thông khí hạn chế biểu hiện bằng giảm rõ rệt dung tích sống và giảm khả năng khuếch tán khí qua màng phế nang mao mạch phổi (đo Dlco giảm rõ), đo khí động mạch có giảm oxy, nếu nặng có biểu hiện suy hô hấp.
Bạn nên làm gì khi có biểu hiện hô hấp hậu COVID-19?
Khi bạn thấy có những biểu hiện trên sau khi mắc COVID-19, bạn nên tìm đến nhân viên y tế, các bác sĩ sẽ xác định tình trạng bệnh và hướng dẫn điều trị triệu chứng và những chăm sóc sức khỏe cần thiết.
Tuy nhiên, bệnh nhân không quá hoang mang lo lắng:
- Nếu bệnh nhân trẻ, không bệnh nền, điều trị ngoại trú chỉ tái khám nếu khi có triệu chứng hô hấp kéo dài.
- Đối với bệnh nhân lớn tuổi, có bệnh nền, COVID-19 trung bình đến nặng nhưng không cần nhập viện thì nên tái khám 3 tuần kể từ ngày khởi phát.
- Còn bệnh nhân nặng, điều trị ở bệnh viện, phải tái khám trong vòng 1 tuần kể từ khi xuất viện, tối đa là 2-3 tuần.
Nguồn: suckhoedoisong.vn
Link nội dung: https://blog24hvn.com/dau-hieu-hau-covid-a64074.html